Cây hồng của bà nội

[3/5]: Chương 3

Đêm đó tôi ở lại.


Mặc bộ đồ ngủ mới tinh mẹ vợ mua cho.


Đó là lần đầu tiên trong đời tôi mặc đồ ngủ.


Đúng, tôi “thiếu chí khí” đến vậy đấy.


Tôi nghĩ: nếu tất cả chỉ là một giấc mơ đẹp, thì cho tôi tỉnh muộn thêm chút nữa.


Sáng hôm sau, bố vợ xuất hiện – đánh thức giấc mơ đẹp của tôi.


Ông nói: “Đã đến bước này rồi, bác muốn hai bên gia đình ngồi lại nói chuyện cho đàng hoàng.”


Cũng là lẽ thường mà thôi.


Tôi biết nói gì đây?


Đành lễ phép đáp: “Dạ vâng, cháu sẽ bảo bố cháu sớm qua thăm bác.”


Nhưng bố tôi không nghe. Chắc ông sợ tôi bắt ông lo sính lễ. Tôi cũng không ép; thực ra tôi báo để… cho đúng thủ tục.


Tôi vẫn coi ông là bố, dù ông có coi tôi là con hay không.


Ông nghiện cờ bạc, lại hay rượu chè; lỡ mà đến, tôi còn sợ ông với bố vợ đánh nhau.


Bố vợ thì không hiểu. Theo ông, đã đến mức này thì bố mẹ nhà trai phải qua dạm hỏi chứ? Dù bố mẹ đã ly hôn, ít ra cũng nên có một người qua!


Chẳng lẽ tôi nói thẳng: “Con là đứa chẳng ai cần” sao?


Mà có nói, liệu ai tin?


Bố vợ sẽ không tin.


Vì ở nhà họ, con cái được cưng chiều đến mức khiến tôi ghen tị đỏ mắt. Kỳ nghỉ, mấy đứa em về nhà toàn ngủ tới trưa mới dậy; chỉ mình tôi dậy sớm nhất, mẹ vợ còn bảo tôi ngủ bù thêm: “Hiếm hoi mới được nghỉ vài hôm.”


Thi thoảng tôi dậy sớm đi bán rau cùng bà nội. Nếu một ngày nào đó bạn ghé thị trấn nhỏ ở Tô Nam này, thấy trên cây cầu đá có một gã cao kều mặc… đồ ngủ, tựa bên một bà lão đang thoăn thoắt nhặt hẹ – thì đó chính là tôi.


Bán xong, bà lại dắt tôi đi “ăn ngon”.


Như Sanmao và José bán cá vậy: chúng tôi bán hẹ 8 tệ/kg, rồi đi ăn hoành thánh nhân… hẹ 15 tệ/tô.


Ăn uống no nê về nhà, ba chị em vẫn chưa dậy.


Ở nhà ấy, bọn nhỏ sống đúng kiểu “đưa tay là có áo, hé miệng là có cơm”. Mỗi lần tụ họp là vừa bừa bộn vừa rộn ràng. Hai đứa em là sinh đôi; thằng em mồm mép, hay trêu chị, cứ gặp là quần nhau. Thỉnh thoảng bạn gái tôi cũng “tham chiến”, cả phòng khách loạn lên, gối bay tứ tung. Bà nội vừa can vừa cười, mẹ vợ đứng bên nhìn mà tủm tỉm.


Tôi thầm thốt lên trong hạnh phúc: Đây mới là nhà!


Ở nhà này, chuyện của con cái luôn đặt lên hàng đầu.


Vậy thì, ai có thể tin nổi hoàn cảnh của tôi chứ?


6.


Mình xin nói đôi lời về bình luận của một người bạn:


Bạn ấy nói đúng—có lẽ đó là định kiến thôi. Trong quá trình trưởng thành, ai cũng mặc nhiên cho rằng điều một đứa trẻ cần nhất là mẹ, nhất là khi còn bế bồng. Vì thế tôi đến giờ vẫn không quên được chuyện mẹ đã nhẫn tâm bỏ rơi tôi khi tôi còn bé xíu như thế.


Có người sẽ bảo: chắc là do bố tôi quá tệ, làm mẹ tôi đau lòng đến mức ấy.


Nhưng tôi lại nghĩ ngược lại. Nếu bố tôi mà “ra gì” một chút, vứt tôi cho bố cũng còn đỡ—ít ra ông còn nuôi nổi tôi. Đằng này bà biết rõ ông như vậy mà vẫn giao tôi cho ông—không sợ tôi bị đói đến ch//ết sao?


Chẳng lẽ bà không đau lòng vì tôi chút nào?


Tôi tệ đến thế ư?


Tôi không đáng để họ xót thương sao?


Có người nói tôi cố chấp, nhưng lúc đó tôi chỉ là một đứa bé mới đầy tháng, hoàn toàn không có khả năng tự sống.


Họ mặc kệ tôi—chẳng phải là muốn tôi chết sao?


Thế thì sinh tôi ra để làm gì?


Vậy tôi phải làm sao để hiểu được cách họ làm?


Tôi không hiểu nổi.


Và cũng chẳng thể nguôi ngoai.


Các bạn thân mến, có thể các bạn sẽ nói tính tôi cực đoan, thậm chí méo mó. Nhưng tôi thật sự không vượt qua được “cái ải” này. Tôi đã cố ép bản thân đừng nghĩ nữa, nhưng mỗi lần nhìn thấy cảnh gia đình người ta, cha từ mẹ hiền, tim tôi lại đau rất lâu.


Nếu không có bà nội, chắc tôi đã bị đói mà ch//ết, và bài viết này đã không tồn tại.


Tôi mới đầy tháng thì bị mẹ bỏ cho bố. Bố lại đem tôi gửi cho bà nội, thỉnh thoảng đưa chút tiền…


Rồi tôi uống được chừng một tháng sữa bột rẻ nhất, hình như 5 tệ rưỡi hay 6 tệ rưỡi một gói.


Sau đó bố không mua nổi nữa…


Khi tôi được hai tháng, bố không mang sữa đến, bà chỉ còn cách nấu “bù shi” (bà gọi vậy, tôi không biết viết thế nào, chỉ nhớ âm) cho tôi ăn—kiểu bột bột như cháo bột, cho thêm chút đường trắng. Tôi bú không nổi, mút không lên, bà phải chấm đầu ngón tay rồi quệt vào miệng tôi…


Sau này lớn lên biết nhớ, có lần bà nổi hứng làm lại cho tôi ăn. Tôi nếm một miếng rồi thôi—lần đó bà nêm muối với dầu.


Có lần tôi xem được một video—hình như là món “giảo đoàn” của Sơn Tây hay Thiểm Tây—bỗng nhớ ngay đến thứ bà từng cho tôi ăn; đại khái hình dạng cũng giống thế.


Trẻ con vài tháng tuổi phải ăn đêm. Thứ đó phải nấu mới, đâu như sữa bột pha là uống được. Bà nội phải dậy mấy lần mỗi đêm để nấu cho tôi…


Một cụ già gần sáu mươi tuổi…


Tôi đã không biết bao lần nghĩ: nếu trên đời thực sự có chuyện “xuyên không”, tôi nhất định sẽ mang cả một xe sữa bột tốt nhất, với một ấm nước cao cấp giữ nhiệt, đem tặng cho người bà vất vả ấy và đứa bé đáng thương ấy…


7.


Trong sân nhà bà nội có một cây hồng. Nhà không có tiền mua hoa quả, nên suốt cả năm, cây hồng ấy chính là “giỏ trái cây” của tôi.


Cây hồng sai trĩu, năm nào quả cũng chi chít đầy cành. Thu về, quả chín làm cành cong xuống. Sang cuối thu, lá rụng hết, chỉ còn vô số quả hồng cam đỏ như những chiếc lồng đèn, tỏa thứ ánh sáng ấm áp, soi rọi tuổi thơ xám xịt của tôi.


Hai bà cháu khi thì dùng sào tre, khi thì leo cây để hái. Bà để một phần vào cái chum, phủ áo bông lên ủ. Mỗi ngày tôi sờ thử không biết bao nhiêu lần; quả nào mềm là lôi ra ăn. Phần còn lại bà gọt vỏ, thái lát, rải lên sàng đem phơi; khô rồi lại cất vào chum.


Hồng tươi, bà chỉ cho tôi ăn mỗi ngày một quả, nói ăn nhiều đau bụng. Nhưng về sau hồng chín nhanh quá, tôi lén ăn hai, ăn ba… cũng chẳng đau gì.


Nghĩ lại, ăn nhiều hồng thế mà trong bụng không sinh sỏi, đúng là… mạng tôi lớn. Mà công nhận, mạng tôi vốn “dai”.


Hết hồng tươi thì đến hồng phơi—ngọt lịm, dẻo dẻo dai dai, ngon vô cùng. Có lần bạn gái đưa tôi ăn xoài sấy, tôi lập tức nhớ đến hồng khô của bà, mũi cay xè.


Mỗi sáng đi học, bà túm cho tôi một nắm. Lũ bạn ăn bánh kẹo, còn tôi thì nhấm nháp hồng khô. Ăn được đến tận mùa thu năm sau, vừa kịp nối mùa.


Người ta bảo hồng không nên ăn nhiều; tôi ăn quanh năm mà vẫn sống khỏe đến giờ—có phải kỳ lạ không?


Với tôi, bà nội như chính cây hồng ấy—gắng hết sức mà nâng đỡ tuổi thơ tôi. Dù bà cũng có lúc than thở, bực bội—bởi bà chỉ là một bà lão rất đỗi bình thường.


Lần nào tôi “đòi” được học phí từ bố, bà lại thở phào, còn nói đỡ cho ông: “Thấy chưa, cuối cùng bố mày vẫn thương mày đấy chứ!”


Còn khi không xin được, bà sẽ lải nhải suốt đêm: “Toàn một lũ đòi nợ! Không ai đoái hoài! Quăng cho tao—một mụ già—nuôi! Tao biết moi đâu ra một xu bây giờ!”


Cứ lật đi lật lại ngần ấy câu, không bao giờ dứt. Giọng khàn khàn run rẩy như cả đàn ong vo ve quanh tai—đến mức tôi muốn phát điên.


Rốt cuộc khi hết cách, bà lại “bỏ cái mặt già” đi gõ cửa các cô chú: “Các con góp thêm chút đi… Dù sao cũng phải cho thằng bé học tiếp mấy năm nữa chứ! Nó còn bé thế, không học thì làm được gì…”


Dù lúc đưa tiền, mặt mũi các cô chú chẳng mấy vui vẻ—nhưng tôi còn mong gì hơn? Bố mẹ ruột còn mặc kệ tôi, thì chỉ một bát cơm thừa người ta chìa ra cũng là tia lửa le lói trong quãng đời ấy của tôi rồi.


Góp đủ học phí, bà lại thở phào; đêm hôm không còn “ong vo ve” nữa. Bà cẩn thận nhét tiền vào cặp tôi, cười tít mắt hỏi:


“Vẫn là bà nội lợi hại chứ? Sau này kiếm được tiền thì cho ai tiêu?”


“Cho bà tiêu ạ!”


Bà bèn thở dài: “Ối giời… Mặt già này chắc chẳng có phúc tiêu tiền mày kiếm đâu!”


Khi ấy còn nhỏ, chưa hiểu chuyện sinh tử. Tôi cứ nghĩ bà nói thế là có ý khác: là không tin tôi, là bảo tôi chẳng kiếm nổi tiền. Mà quả thật, chính tôi cũng không tự tin: cần tiền đến thế mà chẳng kiếm nổi một xu, đối diện khó khăn chỉ thấy mịt mù, bó tay.


Cuối cùng bà cũng chẳng kịp tiêu đồng nào tôi kiếm. Năm tôi học lớp 11, bà bỏ tôi mà đi.


Đôi khi tôi nghĩ, có lẽ bà vì lo cho tôi mà mòn mỏi đến ch//ết.


Giờ ngôi nhà cũ đã xiêu vẹo, chỉ có cây hồng vẫn đứng sừng sững trong ký ức tôi…


Đèn lồng đỏ như còn lấp lánh.


Tôi lại khóc không cầm được…


Tôi chưa từng nghĩ viết câu trả lời này lại đau đến thế—như bị lột da rút gân, từng lớp từng lớp bóc mở những nỗi khổ đã đóng vảy.


Xin lỗi—thật lòng tôi không muốn ai nhìn thấy những đau đớn nơi đáy thời gian của mình. Bây giờ tôi là một người đàn ông ấm áp, tích cực—những gì các bạn có, tôi cũng đã có. Nhất là trước mặt bạn gái, trừ lần đầu dốc hết ruột gan, tôi sẽ không phơi bày nước mắt và quá khứ nữa. Vài chút chua xót buột miệng của tôi chỉ khiến cô ấy lúng túng; tôi nào nỡ để một cô gái lớn lên trong nắng ấm phải cố hiểu cảm xúc của tôi chỉ để đến gần tôi?


Đó không phải điều tôi muốn.


Tôi tự buộc mình đừng quay đầu; phải hướng về vệt nắng ấm mà trời đã cho, cứ thế tiến về phía trước.


Từ khi có em, tôi không còn thấy ghen tị với ai.


Vì thế, những người bạn thân mến ơi—chỉ khi đêm xuống, lúc một mình, chỉ khi đối diện với màn hình và vô vàn tri kỷ ở phía bên kia, tôi mới dám gỡ bỏ cái vỏ bọc mạnh mẽ mình đã băng rừng vượt núi mà khoác lên, để đối diện lại năm ấy, tháng ấy, chàng trai bất lực ấy…


Sắp tới chúng tôi sẽ chuẩn bị đám cưới. Với tất cả những gì tôi vừa kể, tôi có nên về quê làm một lễ cưới không?

Bình luận (0)
Đăng ký tài khoản (5s xong)

Hãy là người bình luận đầu tiên